Thứ Ba, 28 tháng 6, 2011

[Thơ sưu tầm] Đối sánh vua Quang Trung - Lớp 9

Hì, post hết kho văn viết máy lưu trong folder rồi, bây giờ người viết xin post tiếp những bài thơ sưu tầm được trên mạng để làm đối sánh đưa vào tập làm văn (cho nó hay, phong phú, cao điểm,...) Gì chứ mấy bài thơ đối sánh này cũng tốn của người viết kha khá thời gian lục lọi trên mạng... Hi vọng nó giúp ích cho các sĩ tử tương lai! ^^ 
Mở đầu là đối sánh cho hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng lê nhất thống chí nhé :)




Bài ca Bình Bắc (Vũ Hoàng Chương)

Than ôi!
Dòng Côn thuỷ mây lồng thức gấm, mãn vui tình mai liễu độ xuân;
Đỉnh Trường Sơn gió cuộn sóng tùng, chạnh tưởng đức anh hùng cứu quốc.

Nhớ tôn linh xưa:
Khí cốt lăng tằng,
Anh tư khôi đặc.

Sức điều binh khiển tướng, Hạng Võ Lưu Bang,
Lòng trọng sĩ tôn hiền, Văn Vương Huyền Đức.

Tình đất nước giận cơn chia xẻ, lưỡi gươm thần dẹp loạn cứu dân;
Nghĩa Bắc Nam trải dạ gắn hàn, thân áo vải giúp anh dựng nước.

Quy Nhơn biển lặng, rực rỡ ánh tường vân,
Thuận Hoá trời cao, chói chang vầng bạch nhật.

Xiêm phê áp phủ, trên chín trùng toan mối trị bình,
Vút dũa nanh mài, ngoài muôn dặm rắp tâm xâm lược.

Cõng rắn tội kìa ai?
Bắt hùm tay sẵn chước.

Tế trời đất đàn Giao cao vút núi, bóng tinh kỳ sáng dội buổi đăng quang,
Nhìn non sông khí giận ngất từng mây, tiếng hiệu lịnh sấm vang giờ xuất phát.

Hùng binh mười vạn hăng hái hy sinh!
Chiến tượng hai trăm trinh tường trận mạc.

Lòng một quyết ra tay hùng hổ, hẹn nước non ca khúc khải hoàn sau.
Chỉ mười ngày dẹp giống lũ sài lang, cùng tướng sĩ chung vui nguyên đán trước.

Cạn lời uỷ lạo, trống dục cờ giong,
Dốc dạ truy tuỳ, non băng biển vượt.

Ngày ba mươi tháng chạp, sông Giản Thuỷ dồn binh,
Đêm mồng ba tháng giêng, đồn Hà Hồi hãm giặc.

Đánh trận này tiếp trận khác, sấm dậy chớp giăng;
Xong đồn nọ tới đồn kia, khói tan đá nát.

Khuya mồng bốn gió sương mờ mịt, đốt lương rừng lửa đỏ, khiến ba quan liều chết chớ lui;
Sáng mồng năm voi ngựa sẵn sàng, quấn cổ thước khăn vàng, quyết một trận chẳng hơn thì thác.

Thế giặc dẫu binh đông tướng dữ, thuốc súng chôn quanh thành, chông sắt cắm khắp luỹ, thêm bốn bề đạn rạc rào mưa;
Quân ta nhờ trí sáng gan bền, ván dày cột thành cốt, rơm ướt phủ làm bì, hò một rập sức cuồn cuồn thác.

Ầm tiếng pháo, Ngọc Hồi kíp hạ, sông máu láng lai;
Thúc chân voi, Khương Thượng liều thân, núi thây chồng chất.

Nghi Đống liệu khôn bề sống sót, vội vàng treo cổ Đống Đa!
Sĩ Nghị may tìm được lối ra, hớt hãi thoát thân mạn Bắc.

Ngoài ải sói gió tan múi sát khí, niềm hân hoan nhuộm thắm mặt sơn xuyên;
Vào Thăng Long cờ rợp bóng vinh quang, áo chiến thắng phủ đen hồn đạn dược.

Mười ngày hẹn trước, trời đất chứng lời vàng,
Hai bận vui xuân, cỏ hoa lồng tiệc ngọc.

Lửa tạnh hề biên cương,
Nền cao hế xả tắc.

Tiếng anh dũng nước mây lừng lẫy sấm, triều Mãn Thanh bóp bụng sống chung trời;
Chí đấu tranh son sắt vững vàng non, niềm Lưỡng Quảng quyết tâm đòi lại đất.

Nhưng than ôi!
Tấm gan rèn đá, trời chửa vá xong;
Đỉnh Ngự chìm mây, rồng sao vội khuất!

Cơ cường thịnh thiếu tay xếp đặt,
Cửi dòn thoi phút để mối tơ chùng!

Nghiệp đế vương đuối sức giữ gìn,
Thuyền thuận bến trúc theo cơn gió lật!

Trời Phú Xuân sương gió lạnh lùng!
Bến Thị Nại bèo mây tản móc!

Bút chép sử múa men tay đắc thế: trang oanh liệt son nhoà!
Nền ghi ân khuất lấp bóng cô thôn: gương anh hùng thuỷ nhạt!

Nối chí cả người sau toan lấp hận,
Lao công Tinh Vệ ngậm ngùi thương.

Gìn dấu linh chốn cũ khó nguôi tình,
Lắng giọng đề quyên tê tái ruột.

Cũng may thay!
Lẽ tuần hoàn trời đất chẳng ngừng xoay,
Ách chuyên chế giống nòi nay đã thoát.

Trăng hào kiệt bấy lâu u ám, ngọn đông phong mát mẻ vén màn sương;
Vườn anh hoa đua nở tự do, bút thanh nghị ngọt ngào rơi giọt móc.

Chúng tôi nay:
Chung gội ơn xuân,
Kính dâng lễ bạc.

Non xanh nước biếc, khí anh tú mơ màng,
Nội thắm ngàn xa, hương tinh thành bát ngát.

Dòng lịch sử mở ra ôn lại, dịu dàng chữ gấm dệt lời hoa,
Tranh vĩ nhân trải rộng xem chung, lộng lẫy chỉ vàng treo bóng ác.

Hầm Hô con cá nhảy, trong bóng mây thấp thoáng bóng rồng,
Trưng Lĩnh cánh diều bay, theo tiếng gió lẫy lừng tiếng nhạc.

Linh thiêng xin chứng.

Kể từ đấy
Mặt trời mọc ở phương Ðông, ngùn ngụt lửa
Mặt trời lặn ở phương Ðoài, máu chứa chan
Đã sáu mươi ngàn lần …
Và từ đấy cũng sáu mươi ngàn lần
Trăng tỏ bóng nơi rừng cây đất Bắc
Trăng mờ gương nơi đồng lúa miền Nam
Ruộng dâu kia bao độ sóng dâng tràn
Hãy dừng lại thời gian
Trả lời ta - Có phải?
Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải
Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
Lớp hưng phế xô nghiêng từng triều đại
Mà chí lớn dọc ngang
Mà nghiệp lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Vẫn ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn

Ôi người xưa Bắc Bình Vương
Ðống Ða một trận năm đường giáp công
Ðạn vèo năm cửa Thăng Long
Trắng gò xương chất, đỏ sông máu màng
Chừ đây lại đã xuân sang
Giữa cố quận một mùa xuân nghịch lữ
Ai kia lòng có mang mang
Ðầy vơi sầu xứ - Hãy cùng ta
Ngẩng đầu lên, hướng về đây tâm sự
Nghe từng trang lịch sử thét từng trang

Một phút oai thần dậy sấm
Tan vía cường bang
Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng
Cao chót vót năm mầu mây chiêm ngưỡng
Dài mênh mông vượt khỏi lũy Nam Quan
Và khoảng khắc
Ðổ xuôi chiều vươn ngược hướng
Bao trùm lên đầu cuối thời gian
Bóng ấy đã ghi sâu vào tâm tưởng
Khắc sâu vào trí nhớ dân gian
Một bành voi che lấp mấy ngai vàng

Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải
Muôn chiến công, một chiến công dồn lại
Một tấm lòng, muôn vạn tấm lòng mang
Ngọn cờ vung, bao tính mệnh sẵn sàng
Người cất bước, cả non sông một dải
Vươn mình theo – dãy Hoành Sơn mê mải
Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng
Cùng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại
Chín con rồng bơi ngược Cửu Long Giang
Người ra Bắc, oai thanh mờ nhật nguyệt
Khí thế kia làm rung động càn khôn
Lệnh ban xuống, lời lời tâm huyết
Nẻo trường chinh ai dám bước chân chồn
Gươm thiêng cựa vỏ
Giặc không mồ chôn
Voi thiêng chuyển vó
Nát lũy tan đồn
Ôi một hành ca hề, gào mây thét gió
Mà ý tướng, lòng quân hề, bền sắt tươi son

Hưởng ứng sông hồ giục núi non
“Thắt vòng vây lại” tiếng hô giòn
Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa
Tan tác xương thù, ngựa đá bon

Sim rừng, lúa ruộng, tre thôn
Lòng say phá địch, khúc dồn tiến quân
Vinh quang hẹn với phong trần
Ðống Ða gò ấy mùa xuân năm nào

Nhớ trận Ðống Ða hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề, máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề, lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề, một khúc hát ngao
Chí khí cũ gầm trong da thịt mới
Vẳng đáy sâu tiềm thức, tiếng mài dao
Ðèo Tam Ðiệp hề, lệnh truyền vang dội
Sóng sông Mã hề ngựa hí xôn xao
Mặt nước Lô Giang hề, là trầm biếc khói
Mây núi Tản Viên hề, lọng tía giương cao
Rằng: “Ðây bóng kẻ anh hào
Ðã về ngự trên ngã ba thời đại”
Gấm vóc giang sơn hề, còn đây một dải

Thì nghiệp lớn vẻ vang
Thì mộng lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Ôi ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn

Nay cuộc thế sao nhòa, bụi vẩn
Lũ chúng ta trên ngã ba đường
Ghi ngày giỗ trận
Mơ BẮC BÌNH VƯƠNG
Lòng đấy thôn trang hề, lòng đây thị trấn
Mười ngã tâm tư hề, một nén tâm hương
Ðồng thanh rằng: “Quyết noi gương”

Ðể một mai bông thắm cỏ xanh rờn
Ca trống trận thôi lay bóng nguyệt
Mừng trời đất gió bụi tan cơn
Chúng ta sẽ không hổ với người xưa
Một trận Ðống Ða nghìn thu oanh liệt
Vì ta sau trước lòng kiên quyết
Vàng chẳng hề phai, đá chẳng sờn.

____________________________________


Văn tế vua Quang Trung – Ngọc Hân công chúa

Than rằng:
Chín từng ngọc sáng bóng trung tinh, ngoài muôn dặm vừa cùng trông vẻ thuỵ;
Một phút mây che vầng Thái Bạch, trong sáu cung thoắt đã nhạt hơi hương.

Tơ đứt tấc lòng ly biệt;
Châu sa giọt lệ cương thường.

Nhớ phen bến Nhị thuận buồm, hội bái việt chín châu lừng lẫy;
Vừa buổi cầu Ngân sẵn nhịp, đoàn ỷ la đôi nước rõ ràng.

Hôn cấu đã nên nghĩa cả;
Quan san bao quản dặm trường.

Nhờ lượng trên cũng muốn tôn Chu, tình thân hiếu đã ngăn chia đôi nước;
Song thế cả trót đà về Hán, hội hỗn đồng chi cách trở một phương ?

Lòng dẫu xót thấy cơn cách chính;
Thân lại nhờ gặp hội hưng vương.

Thành Xuân theo ngọn long kỳ, đạo tề trị gần nghe tiếng ngọc;
Cung Hữu rạng mầu địch phất, tình ái ân muôn đội nhà vàng.

Danh phận ấy cậy vun trồng mọi vẻ;
Nề nếp xưa nhờ che chở trăm đường.

Ơn sâu nhuần gọi cỏ cây, chốn lăng tẩm chẳng phạm chồi du tử;
Lộc nặng thơm tho hương khói, nơi miếu đường nào khuyết lễ chưng thường.

Mọi nỗi, mọi nhờ trọn vẹn;
Một điều, một được vẻ vang.

Phép hằng gìn hạc thược, tước thoa, buồng quế rạng khuôn Nội Tắc;
Điềm sớm ứng Chung Tư, Lân Chỉ, Phái Lam thêm diễn thiên hoàng.

Mảy chút chưa đền đức cả;
Gót đầu đều trọn ơn sang.

Đền Vị Ương bóng đuốc bừng bừng, lòng cần mẫn vừa khi dóng dả.
Miền Cực Lạc xe mây vùn vụt, duyên hảo cầu sao bỗng dở dang ?

Ôi!
Gió lạnh buồng đào, rơi cầm nẩy sắt;
Sương pha cung đỏ, hoen phấn mờ gương.

Tiệc vầy vui nhớ hãy rành rành, nhịp ca múa bỗng khuây chừng Thần Ngự.
Buổi chầu chực tưởng còn phảng phất, chuông điểm hồi sao vắng chốn Cảnh Dương.

Vấn vít bấy, bảy năm kết phát;
Đau đớn thay, trăm nỗi đoạn trường.

Hé nhà sương ngắm quyển cung châm, tiếng chi phất hãy mơ màng trên gối.
Nương hương nguyệt, ngẫm lời đình chỉ, bóng thuý hoa còn phấp phới bên tường.

Hang núi cũng phàn nàn đòi chốn;
Cỏ hoa đều sùi sụt mấy hàng!

Liều trâm ngọc mong theo chốn châu du, da tóc trăm thân nào có tiếc.
Ôm cưỡng bảo luống ngập ngừng di thể, sữa măng đôi chút lại thêm thương.

Tiếc thay!
Ngày thoi thắm thoắt;
Bóng khích vội vàng.

Thuyền ngự toạ đã ngang ghềnh Thái Thuỷ!
Bóng long xa thẳng trỏ lối tiên hương.

Nẻo hoàng tuyền xa cách mấy trùng, ngao ngán thêm ngừng cơn biệt duệ.
Chén hoàng thuỷ kính dâng một lễ, xét soi xin thấu cõi minh dương.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét